Ân hận – Ân sủng

Người mù
Con gái yêu dấu
Alyssa Milano – chúng tôi sẽ cầu nguyện cho bạn

* Mừng kỷ niệm 5 năm hồng ân thánh hiến của linh mục  HCB, cựu Thiếu nhi Thánh thể Palawan

Hàng năm độ khoảng hè, tôi “lên núi”.  Bởi lẽ chỉ trong thinh lặng, tôi mới có thể cảm nhận được những việc xem ra rất bình thường xảy ra xung quanh nhưng lại ẩn hiện những bài học vô cùng quý giá. Trải mình nằm dài, nhắm mắt, tôi buông mình trên bãi cát mịn.  Tôi mong được là mũi tên nhỏ trong tay người thợ săn là Thiên Chúa, mặc cho Ngài muốn đưa tôi đi ra sao, đến những đâu và dừng lại chốn nào. Tôi dừng lại để nếm cảm được sự yên ắng thật bình dị của đời thường, chìm sâu vào khoảng lặng của tâm hồn, thưởng thức hạnh phúc của hệ tại. Và thời gian này, sự dừng lại cần biết bao vì nhờ vậy tôi mới có thể cảm, nghe được tiếng yêu từ trời cao rõ hơn.
Năm năm trôi qua, trong thiên chức linh mục, có Ngài bên cạnh, tuy cuộc sống có những khó khăn, nhưng với tôi rất nhiệm mầu.  Nhiệm mầu là vì tôi vẫn có thể tiếp xúc được với thực tại, thấy những gì đã và đang diễn ra, để buông bỏ những càm ràm, khổ đau không cần thiết. Hơn thế nữa nhiệm mầu bởi lẽ, trong gian nan tôi biết mình được tôi luyện và được yêu biết bao.  Giây phút tĩnh lặng này, mọi việc có mặt quanh tôi đều trong sáng và tự nhiên, an vui và hạnh phúc, bình an và nhẹ nhàng.
Ngày ấy, tôi chỉ là cậu bé chưa đủ lớn để có thể vùng vẫy ra khỏi nỗi ám ảnh kinh hoàng của cái chết trên con đương tìm tự do. Biển luôn là đề tài muôn thuở cho những câu chuyện tình lãng mạn. Thế nhưng, với đứa trẻ 14 tuổi như tôi lại là nổi sợ hãi. Những ngày dài lênh đênh giữa đại dương, hơi người, mùi ẩm mốc, nắng gay gắt, đói và khát… khiến mọi người rã rời. Lúc biết được người chị thân yêu của mình đã ra đi, tôi giật mình cố nhoài người lên boong thuyền tìm sự sống.i một tháng sau khi đặt chân đến đất trại, tôi mới có thể định thần và quyết định gia nhập đoàn Thiếu nhi Thánh Thể. Dần dần bên các anh chị, các bạn, tôi bắt đầu có lại niềm vui và hy vọng.
Thế nhưng, sau hai năm chờ đợi, tôi nhận được kết quả “RỚT”.  Không qua được thanh lọc, cũng có nghĩa không được định cư ở một nước thứ ba. Tôi thấy đời chông chênh quá! Bao đứa trẻ trạc tuổi, cùng số phần như tôi, đã trở nên chán nản, buông đời mình cho những cuộc vui không ngày mai. Cảm tạ Chúa, trong thời gian này, mỗi ngày tham dự thánh lễ và được giúp lễ, tôi thấy được ủi an nhiều. Đôi lúc, lang thang một mình trên bãi biển, nhìn về chân trời xa, nhớ chị và xót xa nghĩ đến bao người đã bỏ mình trên biển,  tôi lại cảm nhận hạnh phúc mà mình đang lãnh nhận: vẫn sống, vẫn được dạo trên bãi biển… Chính lúc đó, lại có tiếng thì thầm tận sâu trong đáy lòng tôi: “Sự sống này của con là một hồng ân và cũng là chương trình Cha dành sẵn cho con”. Lúc đó, cha linh hướng Nguyễn Trọng Tước có mở lớp “Tìm hiểu ơn gọi theo tư tưởng của Dòng Tên”, tôi theo học và cầu nguyện.
Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc có chương trình cho các thuyền nhân bị rớt thanh lọc thiện nguyện quay về nước, được định cư ở quốc gia thứ ba. Thế là tôi khăn gói quay lại quê nhà.  Lúc này, tôi đã là môt thanh niên 20 tuổi.  Khổ nỗi, về đến nhà thì chương trình định cư cho người tị nạn tự nguyện hồi hương chấm dứt. Giấc mộng đến Mỹ lần nữa sụp đổ.
Tôi trách Chúa và niềm tin bắt đầu lung lay.  Trong thâm tâm tôi  luôn có  sự đối chọi giữa  chán nản, bực bội và ước ao tìm cách được định cư để có thể đeo đuổi lý tưởng. Tôi muốn dùng cách của mình đi tìm chân trời riêng. Nói đến đây tôi lại nghĩ đến sự cám dỗ vô cùng tinh vi của ma quỷ.  Ngay cả trong những ý tưởng tốt đẹp, cả hình ảnh êm đềm bên Chúa, cũng có khi không phải từ Thiên Chúa,  mà là một cách thức ma quỷ làm ta lầm tưởng và ngủ mê ở đó, để rồi vô thức sẽ dẫn ta đến một ngã khác theo ý chúng.
Một năm sau khi về lại Việt Nam, tôi ghép làm con của một gia đình và chuẩn bị lên đường đến xứ sở thần tiên “Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ” với gia đình họ. Khao khát trở thành linh mục lại bừng lên và hy vọng lại ngập tràn trong tôi.
Nhìn lại đời mình, tôi thấy bàn tay Thiên Chúa thật diệu kỳ:
14 tuổi, Ngài cứu tôi thoát tay tử thần trên biển cả.
21 tuổi, để chuẩn bị cho một tưong lai theo cách thức của Ngài, Chúa để tôi nếm trải mùi vị lao khổ trong nhà tù. (Khi đến phi trường chuẩn bị lên máy bay thì công an ập đến bắt gia đình ghép của tôi. Lý do là vì còn thiếu nợ. Thế là tất cả, luôn cả tôi đều bị nhốt trong tù sáu tháng. Ngày tháng trong tù, và cả nhiều năm sau đó tôi đâm oán trách và nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa).
Con muốn đi tu, nhưng giờ đây đã hơn 24 tuổi rồi, không còn cơ hôi nữa! Chúa không muốn con. Vậy thì con phải chuẩn bị đời sống cho riêng mình thôi.
Tôi giận Chúa, nên tôi đã hờ hững luôn với cha già Crawford. Suốt mấy năm trời tôi bỏ luôn không đến nhà thờ.  Như vạn người khác, muốn hay không, tôi vẫn phải sống. Tôi lao đầu vào làm việc mong kiếm được nhiều tiền. Trong nhiều cuộc tình, lại có một cuộc tình tưởng sẽ nên duyên, chuẩn bị mời bố mẹ từ Mỹ về tổ chức đám hỏi, thế nhưng lại không thành.
Ngày 12 tháng 6 năm 2004, tôi đến Mỹ theo diện bố mẹ bão lãnh. Đúng ngày này, 15 năm trước đó tôi đã đến trại tị nạn Palawan. Thời gian đầu tôi thật chưa biết con đường mình đi sẽ ra sao. Tôi cảm thấy chênh vênh, chao đảo với cả đống những dự tính cho tương lai! Cảm giác hờn trách, ngột ngạt cứ như sợi dây thừng trói chặt tôi. Tôi mơ mơ hồ hồ sống như thế cho đến một ngày tình cờ biết được cha cố Crawford đã qua đời mấy năm trước rồi…
Đọc những dòng chữ của cha linh hướng Nguyễn Trọng Tước, tôi cắn chặt môi giữ cho tiếng nấc đừng phát ra, nước mắt chảy dài.  Bao lâu tôi ở Việt Nam, bấy lâu cha già Crawford nhớ đến tôi. Bất kể đứa con này ưong bướng thế nào, ngài vẫn kiên trì trong lời nguyện và gởi thư thăm hỏi. Những năm cuối đời, trên giường bịnh, vật vã với cơn đau, bao cánh thư ngài gởi đi, vẫn bật tăm im tiếng. Cha Crawford vẫn không đầu hàng, vẫn tiếp tục gởi thư hỏi thăm tôi, nhưng hoàn toàn không nói gì đến sức khoẻ của ngài.
Tôi hối hận quá đỗi! Giờ thì đã quá muộn để gởi cánh thư thăm và cũng chẳng còn cơ hội cám ơn cha cố. Kỷ niệm bên ngài, những bài học hy sinh, phục vụ và khiêm nhường của  ngài  trong phút chốc bỗng ùa về trong tôi, nhanh như gió cấp 8, mạnh như bão ập đến, cuốn trôi tất cả sự oán hờn, than thân trách phận, và cảm giác đay nghiến đời bạc bẽo, xui xẻo. Còn lại trong tôi sau biến cố ấy, chỉ là một sự ân hận, tiếc nuối và biết ơn.
Có những hối hận không thể nào đền bù được khiến người ta bị nhốt hẳn trong cảnh khốn cùng. Họ giam mình trong biển lửa hỏa ngục ngay chính đời này. Nhưng cũng có những lỗi phạm, ân hận lại trở thành động cơ giúp ta biến đổi và vượt thoát khỏi những trầm luân của hệ tại. Tôi tin vào lời cầu nguyện của cha cố Crawford, của cha linh hướng, bố mẹ và rất rất nhiều người khác.  Cùng với lòng xót thương của Thiên Chúa và cả niềm tin đã được vun đắp ngày còn bé, đã giúp tôi nhận ra tiếng gọi từ bên trong.  Sau biến cố ấy, tôi quyết định tìm hiểu Ơn gọi.
30 tuổi, tôi được dòng Vincent ở California nhận.  Tôi nghĩ đến Anh Cả Giêsu, 30 tuổi chính thức bước ra rao giảng Tin Mừng.  Còn tôi, 30 tuổi khăn gói vô chủng viện tìm gặp Thầy Giêsu. Trong giấc mơ tôi nghe có tiếng cười, bước chân vội vã và cả những lúc Thầy trò vui vẻ hàn huyên. Thiệt là vui làm sao!
Tạ ơn Chúa. Con không phải là người giỏi nói chuyện, không năng nổ, hoạt bát, nhưng lại thích phục vụ người nghèo. Con tin chắc dòng Vincent là chọn lựa tốt nhất mà Chúa dành cho con.
Ý tưởng Chúa khó hiểu quá. Tưởng có thể bình bình yên yên bám chân Chúa theo cách sống của dòng Vincent. Ai dè lại có sự cố. Phải khăn gói từ giã nhà dòng về nhà với bố mẹ. Tôi đã than thở:
Chúa ơi, 33 tuổi Chúa bị đóng đinh trên thánh giá. Còn con, 33 tuổi buồn bã, chán nản rời khỏi tu viện. Ngài không muốn con thật sao?
Chúa ơi, 33 tuổi, trên thánh giá chắc Chúa đau lắm phải không? Ngài chết rồi, chắc Ơn gọi con cũng theo Ngài mà không còn nữa!
Lần này thì tôi buồn lắm, chẳng muốn làm gì cả. Suốt ngày loay hoay trong nhà, tìm giết thời gian bằng cách đọc sách.  Lần nữa lại rơi vào trạng thái sống trong đêm tối của tâm linh. Dù rằng hy vọng vẫn không tan biến, nhưng thật tình tôi  không thấy có chút khả quan nào!
-Chúa ơi, xin hãy dạy con biết hy vọng dù chẳng thấy hy vọng. Xin giúp con biết nhận ra ánh sáng dù trước mặt chỉ là con đường tối. Ngài muốn gì nơi con?
Chúa luôn có cách trả lời thật bất ngờ và bình dị trong đời sống của tôi.
Một hôm tôi đọc đến sách “Đường hy vọng” của Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận. Lời lẽ và tâm tình của ĐHY đã thay đổi nhận thức hiện tại của tôi. Hình ảnh ĐHY trong nhà giam, có lẽ ngài cũng có lúc tự hỏi, “giờ này bên ngoài con sẽ làm được nhiều việc cho Chúa lắm. Cớ sao Chúa lại để con bị giam giữa bốn bức tưởng này?”.
Mỗi ngày trong tù, ĐHY đều dâng thánh lễ và đem Chúa đến cho anh em nơi ấy. ĐHY nói: “Con thấy hạnh phúc trong buồng giam này, nơi nấm mọc đầy trên manh chiếu con nằm. Vì có Chúa ở cùng con nơi đây, vì Chúa muốn con sống chỗ này với Chúa. Đời con lâu nay nói nhiều, giờ đây con không còn nói nữa. Đến lượt Chúa nói với con. Lạy Chúa Giêsu, con đang lắng nghe tiếng Chúa”.
Lời lẽ này khiến tôi nhận biết được “Theo Chúa để yêu Chúa và được Chúa yêu. Tất cả những gì Chúa muốn con làm, con sẽ làm. Làm việc Chúa muốn, chứ không làm việc con muốn.”
Tôi thôi không tu dòng và quyết đi tu triều (tu cho giáo phận).
Ơn gọi chẳng suôn sẻ.  Đức tin yếu, càng cần được thanh luyện! Lúc này tôi nghĩ đến mối tương quan giữa Phêô và Thầy Giêsu. Tình yêu mà hai người dành cho nhau thật lớn, thật sâu và thật khác lạ quá!
-Chúa ơi, con cũng yêu Chúa. Nhưng con yếu đuối.  Đức tin trước sóng gió có lúc lung lay. Xin hãy thêm sức cho con.
Tôi nhớ  lần trong chủng viện, năm thứ nhất thần học, vào đúng lúc đang trong mùa thi cuối năm… Sáng hôm đó, cha Phó Giám đốc Chủng viện gọi tôi  lên và yêu cầu giải thích về lá thư lên án nhân cách của tôi từ ai đó bên dòng Vincent. Tôi nản vô cùng. Tôi  tưởng đi tu, có cùng mục đích đẹp là mang Chúa đến cho người khác, thì sẽ tránh được những lỗi phạm của ghen ghét, tự kiêu. Giờ mới thấu đáo lời nói của cha linh hướng: “Phải luôn cầu nguyện. Ma quỷ rất tinh vi. Càng gần Chúa, càng sẽ bị cám dỗ nhiều hơn.”
Để đáp lời của cha Phó Giám đốc, tôi chỉ thưa: “Con sống ở đây một thời gian rồi. Cha thấy con ra sao? Con sẽ không giải thích. Cha muốn con ở lại, con ở lại. Cha bảo con đi, con đi.”
Đêm ấy trong giờ chầu Thánh Thể cuối cùng, có lẽ đã quá nửa đêm, tôi đã bật khóc như một đứa trẻ và nói: “Nếu Chúa không muốn con đi tu, thì cho con biết, chứ Ngài đừng dằn vặt con bởi nỗi đau  tưởng rằng đã chữa lành trong quá khứ”. Chẳng hiểu đã ngồi bao lâu trong nhà nguyện, khóc cũng đã đời, ngủ gục cũng một giấc, lúc tĩnh lại, tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng hẳn.  Rồi lại có tiếng nói bên trong: “Bình ơi, con không tin Cha sao? Hãy nhìn lai cuộc đời từ khi đi vượt biên, qua bao  thăng trầm, gian khó, con vẫn ở đây, bên cạnh Cha. 15 năm với Cha như cái tích tắc. Con không thấy Cha luôn mời gọi và mở ngõ cho con cơ hội sao? Tại sao lại kém lòng tin vậy? Hãy đến trình bày mọi sự thật với bề trên của mình”.
Khi ấy, câu nói đánh động tôi nhất là “Cứ nói sự thật, vì sự thật sẽ giải thoát con.”
Hôm sau, tôi vẫn đến lớp và làm bài thi như thường lệ. Tạ ơn Chúa,  tôi tưởng sẽ không còn tâm trí để làm bài, thế mà Chúa soi sáng, các bài đều đạt kết quả tốt. Cha Phó Giám đốc cũng bảo:
Lâu nay cha đặc biệt quan sát con và nay cha  đã tin con. Hãy tiếp tục sống trong Ơn  gọi của mình.
Theo dự tính của tôi, thì còn hai năm nữa mới xong chương trình Thần học,  có thể thư thả hưởng thụ cảm giác của đời chủng sinh:  ngày ngày ôm cặp đến lớp, sáng chiều tối vô nhà nguyện để trò chuyện với Chúa. Thiệt là hạnh phúc làm sao! Thế nhưng,  mình tính không phải là điều Chúa an bài sắp đặt.  Sau thánh lễ chịu chức Phó tế, Đức Giám mục của giáo phận gọi tôi vàao phòng và hỏi:
Con đã chuẩn bị chưa? Cha muốn con gom chương trình hai năm học lại thành một năm. Cha muốn con được thụ phong linh mục năm tới.
Nghe xong tay chân tôi bủn rủn.  Để có thể làm được vậy, tôi phải lấy thêm lớp mùa hè, và hai mùa kế của năm này tôi phải lấy 22 tín chỉ (units) cho mỗi mùa (14-16 tín chỉ là quá đủ cho chủng sinh toàn thời gian). Tôi biết mình không thông minh, khả năng lại giới hạn, nhưng tôi không từ chối.
Cha muốn thì con làm. Nhưng có được không là chuyện của Chúa. Con sẽ cố hết sức của mình.
Tạ ơn Chúa với sư trợ giúp quan phòng soi sáng, các lớp tôi học đều đạt đủ điểm. Tôi cảm nhận được “Chúa luôn cho mình thông phần hợp tác với Ngài để phép lạ xảy ra.”
Duc in Altum –  Hãy thả lưới nơi nước sâu. Mới đó mà đã qua 5 năm ra khơi thả lưới trong thiên chức linh mục! Tôi hiểu được đức tin cần phải được thanh luyện. Đức tin không có thử thách chưa hẳn là đức tin mạnh. Cuộc sống có vui buồn, có thành công và cả thất bại. Tôi chỉ biết cảm ơn cha cố Crawford, cha già Nguyễn Trọng Tước, bố mẹ và những ai đã luôn cầu nguyện cho tôi.
Lạy Chúa, xin hãy tiếp tục cầu nguyện và xin Chúa đồng hành thêm sức, đỡ nâng để con có thể trở thành một mục tử tốt lành như Chúa là MỤC TỬ NHÂN LÀNH.

Tháng 7 năm 2018
Trầm Hương
(Viết theo lời kể của Lm. Benjamin HCB)